Những sứ thần Việt Nam làm thơ về lầu Hoàng Hạc

Hồn thơ phức tạp và bí ẩn của Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử (1912 – 1940), tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, sinh tại Đồng Hới (Quảng Bình) trong một gia đình công giáo nghèo. Năm 14, 15 tuổi đã nổi tiếng là “thần đồng” thơ ở Quy Nhơn. Bắt đầu con đường thơ ca bằng thơ Đường luật, khi Thơ mới bùng nổ, ông chuyển sang sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn. Mắc bệnh phong khi đang ở độ phát triển rực rỡ nhất của tài năng (24 tuổi), Hàn Mặc Tử đã phải về Quy Nhơn chữa bệnh. Thời gian này ông vẫn tiếp tục làm thơ cho đến lúc mất tại trại phong Quy Hoà.

Sáng tác của Hàn Mặc Tử để lại không quá đồ sộ, gồm các tập thơ: “Lệ Thanh thi tập”, “Gái quê”, “Đau thương”. “Xuân như ý”, “Thượng thanh khí”, “Cẩm châu duyên” và các kịch thơ: “Duyên kỳ ngộ”, “Quần tiên hội”. Tuy nhiên, ấn tượng Hàn Mặc Tử tạo ra lại thật đậm nét. Có thể dùng từ lạ để miêu tả diện mạo nghệ thuật đặc trưng trong thơ Hàn.

Có lẽ, Hàn Mặc Tử là một trong số ít những nhà thơ mới mà “quá trình sáng tác đã đi một chặng đường dài từ cổ điển qua lãng mạn rồi từ lãng mạn chuyển nhanh sang tượng trưng, siêu thực” (Phan Cự Đệ). Điều này vừa có cơ sở sâu xa từ trong quan niệm về sáng tạo của Hàn – “tôi làm thơ tức là tôi phát điên” – và hơn nữa, từ nỗi bất hạnh tột cùng trong cuộc đời. Căn bệnh phong cướp đi của Hàn Mặc Tử quãng đời tuổi trẻ đẹp đẽ sôi nổi nhất, lạnh lùng ném thi sĩ yêu đời về một xóm vắng Bình Định, cách ly hẳn cuộc đời, rồi những đau đớn về thể xác chi phối mạnh mẽ đến sáng tác, đưa linh hồn Hàn Mặc Tử phiêu du nhiều khi đến những cõi nào, ngoài cõi người, xa lắm ….

Cái lạ trong thơ Hàn Mặc Tử vì thế biểu hiện trong cả nội dung và nghệ thuật thơ. Càng về những tập thơ cuối đời người ta càng thấy thơ Hàn Mặc Tử lạ lắm, trường liên tưởng nhiều khi phóng túng, đứt đoạn, đến mức nhiều bài thơ trở nên khó hiểu. Dường như Hàn không mấy quan tâm đến sự liên kết và dường như những tác phẩm cuối đời Hàn viết chỉ để cho mình, sáng tạo như một hành vi giải tỏa những ẩn ức, để chuẩn bị cho một chuyến phiêu lưu vĩnh viễn vào cõi “thượng thanh khí”…

Hệ thống thi ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử cũng đan xen phức tạp, không thuần nhất, vừa thân thuộc, thanh khiết, thiêng liêng, cao cả vừa ghê rợn, ma quái, cuồng loạn; trong đó trăng, hoa, nhạc, hương chen lẫn hồn, máu, yêu ma… Thậm chí ngay trong cùng một hình ảnh cũng tự phân thân thành những dạng đối trọi, tương phản. Ví như trăng trong thơ Hàn có nhiều diện mạo, cũng có khi mang vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?”

“Tơ trăng buông rèm trên muôn cành Tơ trăng vàng rung như âm thanh”

“Trăng nằm sóng soài trên cành liễu Đợi gió đông về để lả lơi”

Song cũng có lúc ma quái, rùng rợn:

“Gió rít từng cao trăng ngã ngửa, Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô”

Tuy nhiên, đằng sau thế giới hình ảnh phức tạp kia vẫn hiện rõ một con người với tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế, dù có lúc linh hồn đã muốn rời bỏ thể xác để bay vào cõi siêu nhiên. Đây chính là căn cốt lành mạnh tích cực của thơ Hàn Mặc Tử.

Đi sâu vào thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử, điều thú vị, song không đơn giản, vì thế giới đó lạ lẫm và đầy bí ẩn đối với chúng ta. Ở đây, xin nói kỹ hơn về “Thơ điên” để làm căn cứ phân tích đặc trưng cái tôi Hàn Mặc Tử trong “Đây thôn Vĩ Dạ”.

“Thơ điên” là tên gọi ban đầu của một tập thơ được hoàn thành năm 1938, lúc này Hàn Mặc Tử đã lâm bạo bệnh. Sau này chính Hàn Mặc Tử đổi thành “Đau thương”, có lẽ để tránh hiểu lầm “điên” là một trạng thái bệnh lý (bệnh tâm thần). Thực ra cần hiểu, “điên” là một trạng thái sáng tạo khi người nghệ sĩ miên man trong một nguồn cảm hứng mãnh liệt, “điên” gần với trạng thái xuất thần, đồng thời “điên” cũng là một quan niệm thẩm mỹ độc đáo mà Hàn Mặc Tử ảnh hưởng từ văn học Pháp.

Lối “thơ điên” của Hàn Mặc Tử có những đặc trưng cơ bản như: điệu cảm xúc đặc thù là “đau thương” (vì thế mà Hàn Mặc Tử đổi tên tập thơ là “Đau thương” chăng?), chủ thể trữ tình là cái tôi li hợp bất định, kênh hình ảnh đặc thù là kì dị, mạch liên kết là dòng tâm tư bất định với những đứt – nối, lớp ngôn từ nổi bật là cực tả…

Ánh sáng khác thường Hàn Mặc Tử.

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí sinh ngày 22/9/1912. Nhà thơ là một hiện tượng độc đáo có một không hai trong thi ca Việt Nam. Thơ của ông kế thừa sâu sác nền Hán học truyền thống, nhưng cũng đầy những tìm tòi sáng tạo mới mẻ, tiếp nhận và tiếp biến từ phương Tây.

Hàn Mặc Tử được xem là “vị chúa” trong “Trường thơ loạn”, không chỉ căn cứ vào “Tuyên ngôn thứ nhất” của trường thơ mà bởi lẽ vị chủ soái này đã trung thành trong sáng tác theo hướng điên loạn, đồng thời nhà thơ còn thể hiện tư tưởng sáng tác qua lời tựa trong hai tập thơ “Điêu tàn” của nhà thơ Chế Lan Viên và “Tinh huyết” của tác giả Bích Khê, cũng như trong lời bạt tập thơ “Một tấm lòng” của nhà thơ Quách Tấn.

Cuộc đời của Hàn Mặc Tử ngắn ngủi, thời gian dành cho thơ quá ít, nhưng thi sĩ Hàn Mặc Từ đã trở thành một tác giả độc đáo, đặc sắc với hồn thơ “kì dị” (Hoài Thanh, Hoài Chân), “bí ẩn” (Bích Thu), “lạ nhất” (Chu Văn Sơn)… như vậy phải nói rằng hiện tượng Hàn Mặc Tử đã vượt ra ngoài khuôn khổ, thoát khỏi biên độ của cái thông thường, trở thành cái khác thường, bước ra khỏi vòng nhân gian. Cuộc đời Hàn trở thành nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều loại hình nghệ thuật như: âm nhạc, hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh.

Trong đời sống và văn học, thi sĩ Hàn Mặc Tử không chỉ được quan tâm trong nước, sự nghiệp thơ Hàn trở thành một đối tượng nghiên cứu đầy mê hoặc và lôi cuốn, dẫn dụ bao tâm hồn dam mê thơ ca vào vườn thơ của người. Hơn bảy mươi năm qua, hiện tượng Hàn Mặc Tử đã là sự quan tâm đặc biệt và cho đến nay đã có hàng trăm công trình, bài viết lớn nhỏ, nhiều cuộc hội thảo trên nhiều bình diện: thi pháp học, phong cách học, ngôn ngữ học, văn hóa học,… về sự nghiệp văn chương của Hàn. Tuy nhiên, phải nói rằng những băn khoăn hoài nghi, những vỉa tầng sâu thẳm trong mỗi tập thơ vẫn còn đó, thi nhân và những sáng tạo của thi nhân vẫn ẩn sâu trong thế giới hư ảo.

Cuộc đời ngắn ngủi ở kiếp nhân gian nhưng Hàn đã đi một con đường thơ dài và tương đối trọn vẹn, từ thơ Đường luật với tập “Lệ Thanh thi tập” đến Thơ mới với những tập thơ: “Đau thương”, “Xuân như ý”; “Thượng thanh khí”; “cẩm châu duyên”; hai vở kịch “Duyên kì ngộ”, “Quần tiên hội”; tập thơ văn xuôi “Chơi giữa mùa trăng”… cái thú vị của thơ Hàn là còn mới hơn cả Thơ mới.

Trong số những thi phẩm trên tập “Đau thương” (Điên) đạt đến một giá trị nghệ thuật siêu việt, khắng định tên tuổi Hàn Mặc Tử sừng sững như ngày hôm nay. “Đau thương” có ba phần: “Hương thơm”; “Mật đắng”; “Máu cuồng và hồn điên”.

Phong cách nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử.

Đọc thơ Hàn Mặc Tử ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yếu con người đến khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo, nhưng đó là hình chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời. Một số bài thơ cuối đời của thi sĩ họ Hàn còn đan xen những hình ảnh ma quái – dấu ấn của sự đau đớn, giày vò về thể xác lẫn tâm hồn. Đó là sự khủng hoảng tinh thần, bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời:

“Ta còn trìu mến biết bao người Vẻ đẹp xa hoa của một thời Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng Ôi! giờ hấp hối sắp chia phôi.”

Hàn Mặc Tử trải nghiệm đau thương bằng cả tâm hồn lẫn thể xác, bằng cả điên lẫn tỉnh, bằng cả mơ lẫn thực. Thơ được phóng xuất ra từ đấy, được phóng xuất ra như thế trong ngôn ngữ và cả trong im lặng. Nguồn thơ đó băng ra từ tiếng kêu thống thiết và lâm lụy của đời mà vẫn đầy yêu thương. “Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế” (Thánh nữ đồng trinh Maria).

Tuy nhiên, càng về cuối đời, thơ ông càng tha thiết, thanh thoát, an nhiên, chấp nhận, không còn chất gào thét điên cuồng dữ dội như đã trút hết cơn “lâm lụy” nơi trần thế, dọn sạch mình để chuẩn bị đi vào cõi vĩnh hàng viên mãn một vườn Xuân như ý, cầu nguyện để lại “ra đời” làm một Á Thánh cưỡi “Phượng hoàng bay trong một tối trăng sao” (Đêm xuân cầu nguyện).

Biểu tượng “Trăng”, “Hồn” và “Máu” đã trở thành biểu tượng nghệ thuật bất biến, thường trực và xuyên suốt trong thơ Hàn Mặc Tử. Từ lúc bắt đầu làm thơ cho đến những ngày cuối đời ông, biểu tượng này đã theo ông bay lên “Trên thiên triều ngời chói vạn hào quang”:

Để cho hoa gió thì thào Để cho mây nước nôn nao Quên câu thương nhớ rồi sao Em ơi thế nghĩa là sao

Khi hương thơm kề lỗ miệng Khi tình mới chạm vào nhau Em ơi thế nghĩa là sao Trăng đang nằm trên sóng cỏ

Cỏ đùa trăng đến bên ao Trăng lại đẫm mình xuống nước Trăng nước đều lặng nhìn nhau… Đôi ta bắt chước thì sao ?

“Ta trút linh hồn giữa lúc đây Gió sầu vô hạn nuôi trong cây – Còn em sao chẳng hay gì cả? Xin để tang anh đến vạn ngày.”

“Máu tim ta tuôn ra làm bể cả Mà sóng lòng rồn rập như mây trôi Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ Dâng cao lên, cao tột tới trên trời.”

Ngôn ngữ thuần Việt được sử dụng một cách sáng tạo, được nâng lên một trình độ rất cao nên rất “mới” nhưng cũng rất “Việt Nam”. Nói cách khác, Hàn Mặc Tử bao giờ cũng dùng tiếng Việt một cách “đắt” và táo bạo nhất:

“Làn môi mong mỏng tươi như máu Đã khiến môi tôi mấp máy thèm. Từ lúc bóng em bỏ trái đào Tới chừng cặp má đỏ au au Tôi đều nhận thấy trong con mắt Một vẻ ngây thơ và ước ao”

Mỗi bài thơ của Hàn Mặc Tử vừa mang cấu trúc chặt chẽ vừa vận động hết sức trôi chảy và thường là rất mãnh liệt. Thơ ông khi thì như một dòng suối, nhưng thường thì giống như một dòng thác, một vệt sao băng, chứng tỏ một khí lực thơ hết sức dồi dào và nhất quán. Chính vì thế, ngươi đọc thơ Hàn Mặc Tử như bị một “ma lực” lôi cuốn vào một dòng rung cảm sôi sục của tim và óc.

Hàn Mặc Tử đã đưa vào Thơ mới những sáng tạo độc đáo, những hình tượng ngôn từ đầy ấn tượng, gợi cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong phú. Ngoài bút pháp lãng mạn, nhà thơ còn sử dụng bút pháp tượng trưng và yếu tố siêu thực.