Giá nhiều loại lúa ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tuần qua giữ ổn định so với tuần trước. Cùng với đó, giá gạo Việt Nam xuất khẩu cũng không có sự biến động. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, 8 tháng, gạo xuất khẩu đạt gần 3,85 tỷ USD, tăng 21,7%; sản lượng xuất khẩu đạt 6,16 triệu tấn, tăng 5,9%.

tháng, xuất khẩu gạo đạt gần 3,85 tỷ USD, tăng 21,7%. Ảnh minh họa: congthuong.vn

Trong khi đó, giá gạo xuất khẩu của Thái Lan đã tăng lên mức cao nhất trong hai tháng do đồng baht mạnh lên, trong khi lũ lụt ở Bangladesh làm dấy lên lo ngại về nguồn cung. Gạo 5% tấm của Thái Lan được báo giá ở mức 580 USD/tấn, tăng từ mức 570 USD trong tuần trước, do đồng baht tăng giá.

Giá gạo ở Bangladesh vẫn ở mức cao và có thể tăng hơn nữa do tình hình lũ lụt được dự đoán sẽ ảnh hưởng đến sản lượng và nguồn cung trên toàn quốc. Gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được báo giá ở mức 540-545 USD/tấn, cũng không thay đổi so với tuần trước.

Về thị trường nông sản Mỹ, giá lúa mì trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) tăng trong phiên giao dịch ngày 30-8, qua đó khép lại tuần vừa qua với mức tăng cao nhất trong hơn 3 tháng do tâm lý lo ngại về sản lượng sụt giảm ở châu Âu. Trong khi đó, giá đậu tương tăng lên mức cao nhất trong 3 tuần và giá ngô tăng nhẹ khi nhu cầu đối với các loại ngũ cốc này đi lên.

*Mời bạn đọc vào chuyên mục Kinh tế xem các tin, bài liên quan.

Ngày 26-4, tại TP Cần Thơ, Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả xuất khẩu gạo năm 2023, quý I năm 2024 và triển khai công tác điều hành xuất khẩu gạo thời gian tới.

Việt Nam xuất khẩu 7,1 triệu tấn gạo trong năm 2022 - mức cao nhất trong 10 năm, nhưng ấn tượng hơn cả là trong một số thời điểm, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cao nhất thế giới.

Giá gạo xuất khẩu nhiều thời điểm cao nhất thế giới

Trong Báo cáo mới nhất gửi Chính phủ, Bộ Công thương cho biết, năm 2022, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 7,1 triệu tấn, cao nhất 10 năm, đạt giá trị 3,45 tỷ USD, tăng 5,1% về kim ngạch. Giá xuất khẩu bình quân năm qua đạt 486 USD/tấn.

Trong nhiều tháng, từ tháng 8/2022 đến hết năm, giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam ở mức cao nhất thế giới, vượt gạo Thái Lan 15-27 USD/tấn và cao hơn gạo Ấn Độ 40-50 USD/tấn.

Đà tăng giá xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn duy trì trong 2 tháng đầu năm 2023, với mức bình quân gần 520 USD. Vì thế, sản lượng xuất khẩu dẫu giảm trên 20% trong tháng đầu năm, nhưng vẫn tăng xấp xỉ 7% về trị giá.

Đánh giá chung, Bộ Công thương cho hay, lượng lúa gạo đã được tiêu thụ hết cho người nông dân, nhờ đó đảm bảo lợi ích người trồng lúa có lãi, bình ổn giá thóc, gạo trong nước.

Giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam hiện tại là 463 USD/tấn (giá FOB), tăng hơn 16% so với cùng kỳ năm 2022. Giá này tương đương gạo Thái Lan và cao hơn Ấn Độ, Pakistan 20-23 USD/tấn.Nguồn: Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA)

Đối mặt với nhiều biến cố của thị trường lương thực thế giới, nhưng gạo Việt Nam đã vươn sâu vào các thị trường có những yêu cầu rất khắt khe về chất lượng như Nhật Bản, EU… và gạo thơm ST24, ST25 xuất khẩu đã có giá trên 1.000 USD/tấn, gấp hơn 2 lần giá xuất khẩu gạo trắng thông thường. Đây cũng là một năm khá thành công cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, khi có nhiều đơn hàng xuất khẩu từ các thị trường lớn.

Ngành sản xuất lúa gạo đang tiếp tục được điều chỉnh theo hướng giảm sản lượng, tăng chất lượng, với các chủng loại gạo cao cấp, gạo thơm, tập trung vào các yêu cầu cao của thị trường thế giới, như sản xuất xanh, giảm phát thải, giảm thuốc trừ sâu, tăng sử dụng phân bón hữu cơ…

Điều này lý giải một phần vì sao giá gạo Việt Nam luôn ở mức cao trong thời gian gần đây. Đặc biệt, giá một số loại gạo có thương hiệu nổi tiếng như ST24, ST25 đã tăng đột biến, lên trên 1.200 USD/tấn.

Đáng chú ý, năm qua, các doanh nghiệp xuất khẩu đã khai thác tốt thị trường EU và sử dụng hết lượng hạn ngạch 80.000 tấn mà EU dành cho Việt Nam theo Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), với mức thực hiện  94.510 tấn, cho thấy chất lượng gạo của Việt Nam ngày càng tăng và đáp ứng yêu cầu khắt khe từ các thị trường khó tính và tận dụng tốt các hiệp định thương mại tự do (FTA). Đây cũng là lợi thế rất lớn cho doanh nghiệp gia tăng sản lượng, chủng loại gạo chất lượng cao để tận dụng tối đa lợi thế.

Cũng trong năm 2022, Tập đoàn Lộc Trời xuất khẩu gạo mang thương hiệu Việt vào EU, từ đó đưa mức tăng trưởng tại thị trường này đạt hơn 200%. Từ cuối năm ngoái, Tập đoàn đã nhận được đơn đặt hàng lên đến 400.000 tấn gạo cho thị trường EU trong năm 2023.

Tiếp tục đa dạng hóa thị trường

Bộ Công thương dự báo, xuất khẩu gạo năm 2023 cơ bản vẫn thuận lợi (khoảng 6,5 - 7 triệu tấn), do sự quay trở lại của các thị trường như Indonesia, Bangladesh, Trung Quốc.

Ngay lúc này, tín hiệu mừng là các đơn hàng từ Trung Quốc và Philippines tăng mạnh. Mừng nhất là Trung Quốc, sau năm 2022 giảm nhập gạo từ Việt Nam, nay liên tục chốt đơn hàng. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 2 tháng qua, Trung Quốc nhập khẩu 152.640 tấn, tương đương 90 triệu USD, tăng 86% về lượng và tăng 120% kim ngạch.

Giá gạo xuất khẩu bình quân sang Trung Quốc đứng đầu, với mức 589,7 USD/tấn (tăng 18,3% so với cùng kỳ năm 2022). Theo các doanh nghiệp, khách hàng Trung Quốc hiện nay chủ yếu nhập khẩu từ Việt Nam các sản phẩm cao cấp như gạo thơm và gạo nếp, vốn là chủng loại gạo có giá cao.

Ông Phạm Thái Bình, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (TP. Cần Thơ) chia sẻ, doanh nghiệp đã ký kết được đơn hàng 2.000 tấn xuất sang Trung Quốc và đang triển khai xuất khẩu theo yêu cầu của đối tác. Đồng thời, Trung An đang đàm phán tiếp lô hàng khoảng 20.000 tấn.

Philippines, thị trường nhập trên 3 triệu tấn gạo Việt Nam trong năm ngoái, vẫn trong đà tăng nhập khẩu gạo. Lượng tồn kho của nước này giảm do nhiều diện tích gieo trồng bị tàn phá bởi bão Noru, chi phí phân bón tăng cao. Dự báo, nước này phải nhập khẩu 2,8 triệu tấn trong niên vụ 2022-2023, nên cũng tạo thêm cơ hội cho gạo Việt tăng xuất khẩu.

Tại Ấn Độ, nước xuất khẩu gạo lớn nhất, diện tích gieo trồng giảm 380.000 ha do hạn hán. Đây cũng là cơ hội cho các quốc gia có tên trên bản đồ xuất khẩu gạo như Việt Nam.

Tuy vậy, Bộ Công thương cũng nhìn nhận nhiều thách thức với xuất khẩu gạo năm nay, như các thương nhân còn hạn chế trong chiến lược đa dạng hóa thị trường; xuất khẩu phụ thuộc vào một số thị trường như Trung Quốc, Philippines; xuất khẩu chủng loại gạo chất lượng cao còn hạn chế.

Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), ông Phan Văn Chinh cho rằng, việc Trung Quốc mở cửa thị trường trở lại là tín hiệu tích cực cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong năm 2023. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu gạo vẫn còn những khó khăn tiềm ẩn liên quan đến giá cước vận tải biển cao, chi phí sản xuất lúa gạo cao...

Theo đó, ngành sản xuất lúa gạo cần nâng cao chất lượng gạo, đảm bảo các yêu cầu về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kiểm dịch thực vật, truy xuất nguồn gốc để tận dụng tối đa ưu đãi từ các FTA đang thực thi.

Đồng thời, các doanh nghiệp cần liên kết, đầu tư vùng nguyên liệu, sản xuất xanh để có thể tận dụng hết 80.000 tấn gạo sang EU theo cam kết trong EVFTA cùng các FTA với Vương quốc Anh và khai thác thị trường khối Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)… để có ưu đãi thuế quan tốt nhất.

(HNMO) - Với những biến động đầy khó khăn do dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế thế giới, xuất khẩu gạo Việt Nam đã vượt khó thành công và xác lập kỷ lục mới. Theo Bộ NN&PTNT, dự kiến năm 2022, xuất khẩu gạo đạt 7 triệu tấn, trị giá gần 4 tỷ USD. Đây là kết quả đầy ấn tượng trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động và gạo tiếp tục là mặt hàng tỷ đô của nông sản Việt Nam.

Theo số liệu của Bộ NN&PTNT, trong 11 tháng của năm 2022, lượng gạo xuất khẩu của cả nước đã đạt hơn 6,68 triệu tấn, tương đương hơn 3,24 tỷ USD, tăng 16% về khối lượng, tăng 6,7% về kim ngạch so với 11 tháng năm trước. Cục trưởng Cục chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Quốc Toản cho hay, với đà này, năm 2022, xuất khẩu gạo đạt 7 triệu tấn, trị giá gần 4 tỷ USD là con số vượt kỳ vọng của mặt hàng này bởi năm 2022 rất khó khăn đối với nền kinh tế nói chung, trong đó có xuất khẩu nông sản.

Là doanh nghiệp xuất khẩu gạo lớn của Việt Nam, ông Huỳnh Thanh Tùng - Tổng Giám đốc Công ty CP Xuất nhập khẩu An Giang (Angimex) cho biết, đến tháng 10-2022, công ty đã xuất khẩu trên 200.000 tấn gạo các loại, vượt kế hoạch đề ra trong cả năm 2022. Công ty đang hoàn thành những đơn hàng cuối năm.

Phân tích về những thành công trong xuất khẩu lúa gạo năm 2022, ông Đỗ Hà Nam - Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho rằng, ngành gạo Việt Nam trong những năm gần đây đang có sự chuyển dịch từ gạo ở phân khúc thấp sang gạo chất lượng cao. Xuất khẩu gạo sang các thị trường khó tính ghi nhận mức tăng trưởng mạnh như: Mỹ tăng khoảng 84,8%; thị trường EU tăng 82,2%. Dự báo xuất khẩu gạo năm 2022 vượt 6,5 triệu tấn, mức giá cao hơn Thái Lan, Ấn Độ. Năm 2022 là một năm có rất nhiều biến động trên thị trường khi đầu năm giá gạo đi xuống và phải đến quý III, giá gạo mới tăng. Tuy nhiên có thể khẳng định, năm 2022 tiếp tục là một năm khá thành công của những nhà xuất khẩu và sản xuất lương thực Việt Nam. Ước đến hết năm 2022, Việt Nam xuất khẩu được trên 7 triệu tấn gạo.

Điểm đáng chú ý nữa là giá gạo xuất khẩu Việt Nam ghi nhận tăng mạnh ở những năm gần đây và năm 2022 duy trì ở mức cao. Theo VFA, trong năm 2022, có thời điểm giá xuất khẩu gạo 5% tấm của Việt Nam vượt qua Thái Lan và đứng đầu thế giới. Đơn cử, trong tháng 11-2022, trong khi giá chào bán gạo 5% tấm của Thái Lan chỉ ở mức 440 USD/tấn, còn Việt Nam ghi nhận mức 447 USD/tấn. Với mức này, giá gạo Việt Nam nhỉnh hơn gạo Thái Lan cùng loại khoảng 7 USD/tấn.

Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, xuất khẩu gạo cuối năm và đầu năm 2023 tiếp tục tăng trưởng. Nguyên nhân là do thời tiết khắc nghiệt ở nhiều quốc gia châu Á, nơi chiếm 90% sản lượng gạo toàn cầu, tình trạng biến đổi khí hậu, hạn hán gay gắt ở Mỹ, châu Âu và Trung Quốc - nước có nhu cầu tiêu thụ gạo lớn nhất thế giới, đang đặt nguồn cung gạo vào tình trạng thiếu hụt. Bên cạnh đó, việc Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo 100% và đánh thuế gạo trắng 20% cùng tình hình khan hiếm lương thực trên thế giới thì đây là cơ hội cho ngành xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới.

Tiếp tục duy trì ở những thị trường lớn

Về thị trường, 11 tháng qua, Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 44,9% trong tổng lượng và chiếm 42,9% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, tăng 30% về lượng và 18% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là thị trường Trung Quốc chiếm trên 12% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, đạt 807.947 tấn. Thứ 3 là thị trường Bờ Biển Ngà tăng mạnh 83% về lượng và tăng 61,3% kim ngạch.

Đáng chú ý, xuất khẩu sang khối các thị trường RCEP (RCEP - Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) là Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa 10 nước ASEAN và 5 đối tác là: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia và New Zealand 11 tháng qua tăng 17% về lượng, tăng 9,1% kim ngạch; khối EU tăng 17% về lượng, tăng 0,4% kim ngạch...

Với sự đột phá mới về thị trường đã giúp xuất khẩu gạo tăng mạnh cả về giá trị và số lượng. Ông Phạm Thái Bình - Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An cho biết, giá gạo thơm xuất khẩu tới thị trường Trung Đông, châu Âu của doanh nghiệp này trong năm 2022 đạt mức bình quân 650 USD/tấn, riêng loại gạo ST24, ST25 có giá trên 1.000 USD/tấn - đây là giá xuất khẩu cao đối với mặt hàng lúa gạo trong nhiều năm nay.

Nhận định về xuất khẩu lúa gạo năm 2022, ông Đỗ Hà Nam - Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết, xuất khẩu gạo của Việt Nam dự báo sẽ thuận lợi bởi giá gạo trong ngắn hạn vẫn duy trì ở mức cao do những bất ổn về kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nhu cầu thu mua lương thực tăng lên.“Năm 2023 tiếp tục là năm khả quan với doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Điều này hoàn toàn có cơ sở vì gạo là lương thực thiết yếu mà quốc gia nào cũng cần, trong khi nguồn cung gạo của nhiều quốc gia bị thu hẹp lại do biến đổi khí hậu”, ông Nam nhấn mạnh.

Cùng với thuận lợi, xuất khẩu gạo cũng sẽ đối diện với khó khăn về nguồn vốn và room tín dụng, đồng thời tiếp tục duy trì cả thị trường truyền thống lẫn thị trường mới. Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan cho biết, Bộ NN&PTNT sẽ cùng các bộ, ngành đề xuất tháo gỡ khó khăn đối với các gói tín dụng cho vay sản xuất, xuất khẩu nông sản với Chính phủ. Về mặt thị trường, Bộ sẽ cùng Bộ Công Thương hỗ trợ, tổ chức nhiều đoàn xúc tiến thương mại đi các thị trường mới, trọng điểm như Trung Đông, EU… Bên cạnh đó, ngay tại nội địa, Bộ Công Thương cũng tổ chức nhiều hội thảo kết nối giao thương trực tiếp cho doanh nghiệp với nhà nhập khẩu quốc tế.